^_^ Một trà một rượu một đàn bà / Ba cái lăng nhăng nó hại ta / Chừa được cái nào hay cái ấy / Có chăng chừa rượu với chừa trà (Ba thứ lăngnhăng - Tú Xương) Một số bài họa bài thơ trên của Tú Xương : Tam thú bất ly Một ấm một be với một bà Thiếu ba thứ ấy bất thành ta Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào, hay thứ ấy Có chăng, chừa rượu với chừa trà! Cụ Tú Xương nói vậy thôi, chứ tôi tin rằng cụ không hề chừa…thứ nào cả!!! Tôi thì đang cố chừa…từ từ! Một trà, một rượu, một thơ ca . Một trà, một rượu, một đàn bà Thơ về rượu và rượu với thơ, hẳn có vô số sáng tác, bài sách khảo cứu. Còn thơ về trà và trà với thơ cũng không kém cạnh. Có điều, bổn tính trà khiêm cung lại nghiêng về suy tư trầm mặc, chớ Mà không phải chỉ ở xứ ta, khắp trên trái đất. Giữa nhiều khuynh hướng thơ xưa nay có một dòng thơ về rượu, có một dòng thơ về trà Thái Nguyên Thái Nguyên. Một trà Thái Nguyên Thái Nguyên, một rượu, một thơ ca… Và bạn yêu thơ có thể dùng câu trên đối lại câu Vay Tiền Nhanh. Một điều khoái hoạt vào loại nhất trong cuộc đời có nhiều vụn vặt của những đàn ông, đó là uống rượu. Đại thi hào của người Việt là cụ Tam Nguyên Nguyễn Khuyến tuy tưng tửng đùa nhưng vẫn trân trọng ghi nhận. Một rượu một trà một đàn bà. Ba cái lăng nhăng nó hại ảnh trắng đen sờn cũ cuối thế kỷ XIX, chụp cụ Nguyễn đang rưng rưng cầm trong tay một chén rượu nhỏ hạt mít, được rất nhiều nhiếp ảnh gia đương đại coi là mẫu mực của thể loại ảnh chân dung. Theo truyền ngôn, một nam danh sĩ ở thời Thịnh Đường bên Trung Quốc, chết vì uống rượu quá nhiều, trong một lúc hiếm hoi tỉnh cũng đã mạnh dạn đưa ra một list “tứ đại đô ping” cho giới mày râu. Tửu, Sắc, Yên, Đổ. Nôm na đại loại là, rượu chè, trai gái, hút hít, cờ bạc. Văn hoá bình dân tái công nhận điều này bằng thuật ngữ “tứ đổ tường". Và đương nhiên, trong cái sự sập nhà không cần bão ấy, rượu chiếm ngôi vị quán điều kha khá lạ lùng là trong giới văn nghệ sĩ khi tới lúc mệt mỏi tận cùng của văn chương, của sân khấu, của điện ảnh thì hay buông bút lui về cầm chén. Rồi cũng không hẳn vì mưu sinh, bỗng một ngày thanh thản náo nức mở tửu quán. Việc mở quán thường hay rơi vào văn sĩ hoặc nhạc sĩ. Quán của văn nhân rượu thì ngon nhưng đồ mồi thì dở. Quán của nhạc nhân hình như ngược lại, món nhắm không tệ nhưng rượu đôi khi rất tồi hôm rồi, nhiều người sành uống có được mời đến quán rượu của nhạc sĩ tha hương gốc HàNộiPhúQuang. Nhạc sĩ mớimở một tửu lầu ở giữa đoạn phố nhỏ chính lòng Thủ Đô. Không hiểu sao rượu và đồ uống đều đột ngột tuyệt ngon, có người lành và sành mồm cho rằng hôm đó là ngày khai quán.Đàn ông mà biết uống rượu thì từ xưa đến nay cũng không có nhiều, bởi rượu là thứ đờ uống tuyệt đối khó tính. Thể chất rượu tuy tinh thuần nhưng khí độ của nó lại nồng nàn đậm. Hoặc quá chén hoặc lỡ chén đều dễ xảy ra vô số lầm lỗi,có kẻ đa tình sau khi uống thì bị mất người yêu như nhân vật Hoàng trong tiểu thuyết "Cơ hội của Chúa”. Có bậc vương giả sau khi uống thì bị mất nước. Trần Hậu Chủ một ông vua bên Tàu là người như vậy. Ông này đa tài cái thiếu duy nhất là lài trị nước, là tác giả chưa bao giờ đạo nhạc của hai điệu khúc khét tiếng có ca từ gây sốc "Ngọc Thụ” và "Hậu Đình Hoa". Khi quân nhà Tuỳ áp sát kinh thành. Hậu Chủ vẫn bất cần cùng quần thần và mỹ nữ dâm dật bét nhè nốc rượu. Tuy nhiên, nếu phải so với HoằngQuan, vua nhà mạt Minh thì Trần Hậu Chủ chưa là cái đinh gì. Ông này chỉ hiếu tửu, khi thua trận bỏ Yên Kinh chạy loạn xuống phía Nam, buồn đờiphẫn chí liên miên uống liền tù tì 24/24. Trước khi mất vì viêm gan một căn bệnh rất đặc trưng của đám tửu đồ, nó độc đáo độc quyền độc vị y như cứ nhắc đến quan chức là hầu hết phải nhắc đến tham nhũng, vị tửu vương này để lại một cặp câu đáng gọi là tuyệt cú. “Vạn sự hà như bôi tại thủ. Bách niên kỷ kiến nguyệt đương đầu”. Một ba ten đờ hành nghề pha rượu ở Khách sạn năm sao thời nay đã hoang mang dịch. “Mọi sự sướng nhất, tay cầm chén. Mấy khi trăng chiếu đúng đỉnh đầu”. Rượu có hại như vậy nên trong thanh quy giới luật của rất nhiều tôn giáo đều có giới tửu. Giới này phải nghiêm ngặt giữ y như giới nhưng rượu cũng như mỹ nhân, thoạtnhìn lỗi thì lớn nhưng sâu xa thì hoàn toàn trinh bạch vô tội. Rượu giống đạo lý ở chỗ không rõ hình hài. Nó thiên biến vạn hoá lộ diện vào phong thái của người uống. Nhân cách mà thanh cao thì rượu thanh cao. Tư cách mà dung tục thì rượu dung tục. Không phải ngẫu nhiên trong sự cúng kính Trời Đất hoặc tế lễ tổ tiên thì rượu là thứ bắt buộc phải dùng. Hương rượu tuy nồng nhưng không ô trọc. Chấtrượu tuy đạm nhưng không bợn đầy. Uống đủ lượng rượu không những lời hay ý đẹp lâng lâng tràn ngập mà tâm can đột ngột tiêu sái chân thành cởi mở. Đáng nhẽ chỉ đọc một đoạn thi thì bỗng phừng phừng hứng chí ngâm hết cả một trường ca dài tới câu lục đây quý bà, quý cô thường lo lắng là đàn ông Việt đang uống rượu nhiều quá, nhưng chắc chắn họ sẽ lo hơn khi tất thảy chồng của họ, người tình của họ lũ lượt rủ nhau đi uống sữa. Trong đời sống con người, nhất là nam giới thường mắc phải vài thói hư tật xấu. Tứ đổ tường thường dính phải một, hai. Có nhiều người còn tự hào về những thói hư tật xấu của mình. source from Quách Tố Vương Xin đọc câu chuyện vui sau đây “Một người đàn ông đi làm việc về thấy một gã lạ mặt, quần áo rách rưới đứng trước sân nhà, liền hỏi – Ông là ai mà đứng trước nhà tôi? Gã lạ mặt trả lời- Thưa ông, tôi lỡ đường, lại đói quá, xin ông vui lòng giúp tôi ít tiền để tôi có được buổi ăn đàn ông từ chối – Tôi có thể giúp anh nhưng tôi biết cho anh tiền anh sẽ đi uống rượu hoặc đánh bạc. Gã lạ trả lời – Tôi thề với ông, đời tôi chẳng biết tứ đổ tường là gì, thì khi nào tôi lại đi uống rượu hay đánh bạc. Mắt người đàn ông sáng lên, vui vẻ nói – Vậy thì mời anh bước vào nhà uống miếng nước rồi tôi giúp anh chút tiền ăn cơm chiều Gã lạ mặt ngạc nhiên – Sao lại phải bước vào nhà, áo quần tôi rách rưới, dơ bẩn. Người đàn ông nói – Tôi chỉ muốn vợ tôi nhìn thấy một người không có thói hư tật xấu nó như thế nào. Vậy thôi! Như ông Tú Vị Xuyên “Bài bạc kiệu cờ cao nhất xứ. Rượu chè, trai gái đủ tam khoanh.” Thế mà ông Tú chẳng ngại miệng đời, ngông nghênh làm thơ nói ra cho thiên hạ biết đời người có tứ khoái Ăn, ngủ, ấy, ể. Những cái khoái của ông Tú là “Một trà, một rượu, một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta Chừa được thứ nào hay thứ nấy Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà.” Vậy ta hãy tán gẫu về những thứ mà ông Tú là Vị Xuyên vướng phải cho vui 1- MỘT TRÀ Chẳng được bao lâu. Một lần sau buổi cơm chiều, bà vợ đang rửa chén sau nhà thì nghe chồng gọi “Bà nó ơi! Vào xơi chè với tôi.” Trà là thức uống thanh nhã của người Á đông. Trà, tiếng miền Bắc gọi là chè. Có cặp vợ chồng, chồng Bắc, vợ Nam , cưới nhau. Bà vợ ngạc nhiên la lên “Mới ăn cơm xong no muốn chết, bụng dạ đâu ăn chè cho nổi.” Ba miền Bắc, Trung , Nam có nhiều tiếng khiến dân ba miền hiểu lầm nhau. Có lần người viết bài nầy đến thăm cô bạn gái người Huế, thuộc dạng hoàng tộc, cũng là người trong giới cầm bút. Vừa mở cổng, có hai con chó chạy ào ra sủa toáng lên làm tôi sợ hãi. Lúc đó, người bạn từ trong nhà chạy ra vừa xua đuổi hai con chó vừa trấn an tôi “Không răng mô! Không răng mô!” Tôi vừa sợ vừa giận, nói lớn “Chó nhà em răng chơm chởm thế kia, sao bảo không răng?” Trở lại chuyện uống trà. Uống trà tinh thần sảng khoái, quên cả mệt trà có chất thebaine, giống như chất cafeine có tác dụng giúp cho tỉnh ngủ. Thuở xưa các dân du mục bên Tàu, mỗi lần đi săn hay chinh chiến về, thấy loài ngựa mệt nhọc, thường hay tìm một thứ lá cây để ăn. Ăn xong loài ngựa như khoẻ ra. Loài người thấy vậy bèn lấy lá nấu nước, uống thử, thấy nước có vị hơi đắng và chát nhưng hậu ngọt. Uống vào một lát sau thấy người khoẻ khoắn. Từ đó người ta tìm ra được một thức uống mới và mỗi ngày một cố gắng cải tiến để trà uống được ngon hơn. Trà uống có nhiều cách. Có người tính tình giản dị, đun nước cho sôi, bỏ trà vào bình rồi châm nước vào đợi một lúc cho ra trà, rót vào chén lớn uống ừng ực đến đã thì thôi. Uống như vậy gọi là “ngưu ẩm.” Có nhiều người cách uống cầu kỳ. Họ không nấu trà bằng nước mưa mà bằng nước giếng khơi ở trên núi hoặc bằng nước suối. Các cụ bảo “Tuyền dĩ trà vi hữu.” Suối là bạn của trà. Còn nước giếng thì phải trong, ngọt và không có phèn. Bậc vua chúa uống trà còn cầu kỳ hơn nữa. Mỗi sáng các cung phi ra vườn, hứng những giọt sương đêm đọng trên lá sen rồi đem đước đun sôi trên cái lò than nhỏ. Than phải đốt đến lúc đỏ rực để không còn khói mới bắc ấm nước lên. Nước sôi, châm nước vào cái bình bằng đất nung màu đồng vỏ cua để tráng ấm. Rồi mới châm nước vào trà. Nước đầu tiên cốt để rửa trà cho sạch, gọi là nước Khất Cái. Kế đó châm nước lần thứ hai, đậy nắp bình lại giữ nóng cho ra trà. Nước nầy gọi là nước Hoàng đế. Xong đổ ra chén tống rồi chuyển sang chén quân, mới uống. Loại bình trà tốt có màu như gan gà. Thứ nhứt Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội thứ ba Mạnh Thần. Uống trà phải uống thong thả để tận hưởng hương vị trà. Nhiều người chỉ uống một mình vào buổi sáng tinh mơ, vừa uống vừa suy nghĩ chuyện đời. Uống như vậy gọi là độc ẩm. Nếu có thêm một tri kỷ ngồi uống với mình gọi là đối ẩm. Trà có nhiều loại không sao biết hết. Loại trà Bạch Mao Hầu, trà Thiết Quan Âm, trà Trảm M. thường thấy ở Việt Nam . Vùng Thái Hồ, huyện Bích La bên Tàu có trà Bích La Xuân nước trà màu xanh biếc, rất thơm có vị đắng nhưng hậu ngọt. Vùng Vân Nam có thứ sơn trà danh tiếng được mệnh danh là Điền Trà, màu vàng sậm. đắt tiền nhất là trà Mạn Đà. Trà nầy chỉ có bậc vua chúa hoặc rất giàu có mới dùng nổi. Ngoài ra còn trà Mạn Nguyệt, trà Hồng Trang Tố Lữ, trà Thập Bát Học Sĩ có mười tám bông màu sắc đều khác nhau. Trà Phong Trấn Tam Hiệp có ba bông. Trà Nhị Kiều có hai bông và còn nhiều nữa. Người Tàu và người Việt Nam , không ai không biết uống trà. Miếng trà đậm đà câu chuyện. Có lẽ vì vậy, mỗi lần khách đến, chủ nhà vội vàng nấu nước pha trà ngay. Có một ông khách đến thăm ngay lúc nhà bà bạn đang sửa ống nước. Ống nước chính dẫn vào nhà bị khoá. Trong nhà không còn nước để nấu trà. Bà chủ hoảng quá, chạy vội vào phòng tắm vét hết số nước còn lại trong một cái xô” đem nấu trà đãi khách. Khi khách uống, bỗng thấy ở cổ vương vướng một vật gì, cố gắng khạc ra thì là một sợi lông. Ông khách là người thiếu tế nhị, đưa sợi lông ra hỏi “Sao trong trà lại có lông?” Bà chủ nhà đỏ mặt, ấp úng đáp “Thưa, đó là trà Ô Long.” Ông khách thầm nghĩ Ô Long là con rồng đen đâu phải sợi lông đen nhưng ông khách im lặng. Lúc ra về ông ghé qua khắp các tiệm trà trong phố, hỏi xem thì không có loại trà nào là Ô Lông cả.. Còn một thứ trà rất rẻ tiền, người nghèo cũng có thể uống được. Hương trà rất thơm ngon, tên là trà Thái Đức. Uống vào thức đái suốt đêm. II- MỘT RƯỢU Rượu chữ nho gọi là tửu. “ Nam vô tửu như kỳ vô phong.” Cờ không gặp gió, lá cờ rũ xuống, xem chẳng oai hùng chút nào đàn ông thiếu rượu, giống như lá cờ rũ, kim đồng hồ thường chỉ sáu giờ, trông phát nản. Rượu cất bằng gạo nếp, nấu xong, dùng men ủ, vài ngày sau mới đem ra cất. Rượu ngon hay dở còn tuỳ vào bí quyết và kinh nghiệm nấu. Rượu là lộc Trời cho. Bậc vua chúa ngày xưa, đã biết dùng rượu để di dưỡng thiên hạ, dùng vào việc tế Trời, lễ đất, cầu phúc, cầu lợi. Vô tửu bất thành lễ. Các bậc thánh nhân ngày xưa không ai không uống rượu. Lưu Bang Hán Cao Tổ nhân lúc rượu say, cầm gươm chém rắn bạch, khởi nghĩa, lập nên cơ đồ nhà Hán. Phàn Khoái dự tiệc Hồng Môn Phàn, lấy cao cắt thịt, uống rượu, thi đua múa gươm, mưu đồ đại sự. Khổng Tử lúc hứng uống cả ngàn chung. Tử Lộ uống như hũ chìm. Lã Bạch càng uống, làm thơ càng hay. Nhiều người không quen mùi rượu, đọc xong thơ của Lã Bạch cũng lăn quay ra say khước. Một lần Kinh Kha rượu đã ngà ngà, uống thêm một chén rượu tiễn đưa, rút gươm chỉ xuống dòng sông Dịch chửi thề – Mẹ kiếp! Chuyến nầy không thành công thì ông đíu thèm qua sông nầy nữa. Và lần đó Kinh Kha đã hát bài nhạc Pháp “Aller Sans Retour,” mua tấm vé tàu suốt rong chơi miền tiên cảnh. Người tài hoa phải biết đủ cầm, kỳ, thi, hoạ, nhưng chưa sành sọi về rượu thì chưa trọn vẹn. Người sành rượu không phải chỉ biết vị, biết hương của rượu mà còn phải nhập vào linh hồn của rượu nữa. Rượu giúp con người thêm can đảm. Nếu không say rượu thì có cho kẹo, Lưu Bang cũng không khi nào dám chơi dại cầm gươm chém rắn. Chỉ nhờ lúc có rượu làm liều mà dựng nên sự nghiệp. Rượu gây thêm hào hứng cho kẻ anh hùng đàn ông có rượu vào, khí thế oai minh, thái độ hùng dũng như cờ gặp gió, như lân gặp pháo. Thứ nhứt rượu đã ngà ngà, Thứ nhì chàng ở phương xa mới về. Chàng ở phương xa mới về thì phải biết đá liên tu bất tận nhưng nói nào ngay đá chẳng được bền. Còn rượu đã ngà ngà thì không thể chê vào đâu được đá mạnh, đá bền bĩ, đá đến lúc các bà ngả nón chào thua mới thôi. Lờ rằng lờ chẳng sợ ai Sợ thằng say rượu ấy dai đau lờ. Đấy, thằng say rượu nó hung hăng đến như thế. Vì vậy các bà có kinh nghiệm sống lại thích có một ông chồng say. Thấy chồng đôi ba ngày không uống rượu thì tìm cách làm thức ăn ngon bày ra trước mắt. Dân nhậu thấy thức ăn ngon thì chém chết cũng đòi rượu mà đòi rượu coi như sụp bẫy các bà. Đốt than nướng cá cho vàng Lấy tiền mua rượu cho chàng nhậu chơi. Dân nhậu có tính thảo ăn. Có thức ăn ngon thì nghĩ ngay đến bạn hiền. Nếu trong lòng tâm sự đa mang, có được người bạn hiền để chén chú, chén anh, nỉ non tâm sự thì còn gì bằng Một ly nhâm nhi tình bạn Hai ly uống cạn lòng sầu Ba ly mũi chảy tới râu Bốn ly ngồi đâu gục đó Năm ly cho chó ăn chè Sáu ly vợ đè cạo gió. Giai thoại về rượu rất nhiều, không sao kể xiết. Mỗi quốc gia có vài thứ rượu đặc biệt. Rượu Pháp nổi tiếng nhất thế giới như rượu vang Champagne . Ai cũng biết Champange là loại rượu sủi bọt Sparkling wine thường dùng trong các cuộc vui như đám cưới, sinh nhật v…v… Napoléon, Hoàng đế nước Pháp đã nói một câu để đời về rượu Champange – Khi thắng trận ta uống Champange để mừng chiến thắng. – Khi bại trận ta càng cần phải uống Champange để giải sầu. Nho để làm rượu Champange phải là loại Chardonnay chát trắng và loại Pinot noir chát đỏ của vùng Bourgonge mới số dzách. Mở Champagne cũng là một nghệ thuật. Mở thế nào cho rượu nổ một tiếng pop khá lớn mà rượu không vọt ra ngoài do áp suất của khí carbonique trong chai. Lan man về Champange đã hơi nhiều, người viết xin nói tiếp về rượu Pháp. Ngoài Champange còn rượu khai vị như Cointreau, Grand Marnier, rượu mạnh có Martell, Hennessy, Courvoisier, Remy Martin, thứ nào cũng hết xảy nhưng phải loại XO mới tuyệt cú mèo. Đó là rượu Tây. Người Tàu coi trọng vấn đề ăn uống. Gặp nhau câu hỏi đầu tiên là – Lứ chía pừng hay Nị xực phàn m.? hoặc Nị sứ phán mĩ dầu? có nghĩa là Anh ăn cơm chưa? Vì quí trọng miếng ăn nên người Tàu chủ trương miếng ăn, thức uống phải ngon và bổ nên người Tàu nghĩ ra rượu thuốc như Nhứt dạ lục giao sinh ngũ quỷ. Một đêm lâm trận với sáu bà sinh ra năm thằng quỷ sống, hoặc nhứt long quần ngũ hổ, một con rồng quần với năm chị cọp cái. Ngoài ra còn Mai Quế Lộ, Ngũ Gia Bì. Thứ nào cũng cường dương, cũng số dzách. Nhật bản có Sa-kê. Nga có Vodka, Việt Nam có Whiskyson. Nói lái hai âm ky-song là công xi Rượu công xi Bạc Liêu thì hết xảy. Rượu đế Phước Long rất nổi tiếng. Chất rượu trong như nước mưa, rót ra, bọt nổi vòng quanh miệng ly, uống vào nóng muốn cháy cổ. Thở ra nếu ngồi gần vách lá có thể làm cháy nhà như chơi. Ngoài ra còn rượu Bình tây, rượu nếp than. Sau năm 19 75 , Việt Cộng mang vào Nam loại rượu cà-phê, rượu chanh, uống như đồ bỏ. Tôi có một người bạn là Công tử Bạc Liêu, tự pha chế một loại rượu thuốc và đặt tên là Phu ẩm phụ hoà hài tửu. có nghĩa là rượu chồng uống vợ khen. Nếu có văn thi hữu nào viếng nhà Công tử Bạc-liêu, nếm thử vài chung xem đức phu nhân có khen không cho biết. Rượu ngon, thức nhấm ngon, chỗ ngồi nhậu thoải mái, lại có thêm bạn hiền thì uống ngàn chung cũng còn quá ít. “Rượu ngon không có bạn hiền, Không mua là tại không tiền không mua.” III- MỘT ĐÀN BÀ Như trên đã nói, thời tiết có bốn mùa, con người có tứ khoái. Người ta thắc mắc không hiểu tại sao cái khoái thứ ba thường làm người ta điên đảo thần hồn, khốn khổ đến chết lên chết xuống mà vẫn muốn tìm hưởng cho bằng được lại bị xếp vào hàng thứ ba, sau ăn và ngủ? Thật ra cũng chẳng khó khăn gì để thắt mắc. Ca dao có câu Còn ăn, còn ngủ, còn gân, Hết ăn, hết ngủ, có mần được chi? Ăn không được, ngủ không được làm gì có xí quách mà hưởng cái khoái thứ ba. Ăn không được thì thác, ngủ không được cũng đi đong. Không hưởng được cái khoái thứ ba tuy có buồn nhưng vẫn sống phây phây, lại không bị đau lưng nhức mỏi. Con người vốn yếu đuối, thường làm nô lệ cho thói quen. Nghiện rượu, nghiện trà muốn bỏ không phải chuyện dễ nhưng theo cụ Tú Xương nghiện rượu, trà gì cũng có thể bỏ được, còn món đàn bà thì vô phương Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. Thế mới biết món đàn bà khó mà thiếu được. Trà, rượu là sản phẩm của con người. Đàn bà là tác phẩm của Thượng Đế Giê-hô-va, Đức Chúa Trời làm cho Adam ngủ mê bèn lấy xương sườn rồi lắp thịt thế vào. Giê-hô-va Đức Chúa Trời dùng xương sườn đã lấy nơi Adam làm nên một người nữ, đưa đến cùng Adam. Sáng Thế K. 2 21, 22. Từ lúc Adam có thêm bà Eve để đêm đêm đem gà ra chọi chơi cho đỡ buồn thì bao nhiêu chuyện khốn nạn xảy ra cho Adam và cũng từ đó bọn đàn ông thất điên bát đảo luôn cho tới bây giờ. Thế mà cũng không ai tởn. Nhìn lại đời xưa, nụ cười của Đắc Kỷ làm sụp đổ nhà Thương, Bao Tự làm tiêu tan nhà Chu , Dương Quí Phi chỉ mỉm cười cũng đủ làm Đường Huyền Tôn són đái đó là chuyện xưa. Còn ngày nay, xếp Edward Kennedy cũng vì nàng Mary Jo mà thân bại danh liệt. Chú nhỏ Gary Hart cũng vì cái “ lima ” của chị Donna Rice mà tiêu tùng sự nghiệp. Cả đến các bậc tu hành Jim Baker, Oral Robert, Marvin Gorman và Jimmy Swaggart cũng vì “cái sự đời” mà sự nghiệp tiêu ma. Thế mới biết, cổ nhân ngày xưa đã nói Sắc bất ba đào dị nịch nhân. Nhan sắc đàn bà không có sóng mà đánh chìm được con người. Nhưng cứ đem đàn bà ra tố khổ là điều bất công. Đàn bà cũng trăm thứ đàn bà. Đàn bà của cụ Tú Xương thuộc loại “Đàn bà lặn lội bờ sông. Gánh gạo nuôi chồng, tiếng khóc nỉ non” nên Tú Xương không bỏ được, lại còn được sống trong chế độ ba nuôi Nhỏ cha mẹ nuôi, lớn vợ nuôi, già con nuôi. “Nhỏ thì nhờ mẹ nhờ cha, Lớn lên nhờ vợ về già nhờ con.” Đàn bà như vậy ngu sao mà bỏ. Cái đau là gặp phải loại đàn bà cột tìm trâu, tối ngày mò tới đàn ông, chằn ăn, trăn quấn “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng Từ anh chồng cũ đến chàng là năm Còn như yêu vụng nhớ thầm Họp chợ trên bụng có trăm con người.” Gặp loại đàn bà như vậy mà vẫn không sao bỏ được mới là tai hoạ. Đời sống tị nạn gặp phải cảnh gái thiếu trai thừa, cộng thêm cái hoạ là phong tục xứ người nữ trọng nam khinh. Lộ trình của các ông cứ dần dần đi xuống cực tiểu, trong khi lộ trình của các bà thênh thang như xa lộ không đèn. Nếu may mắn chớp được một bà dù đẹp, dù xấu, dù hư, dù nên chắc cũng phải khư khư giữ lấy và cũng bắt chước cụ Tú Xương mà ngâm nga Hoạ chăng chừa rượu với chừa trà. / phan nguyên luân / … thực hiện hơ Trà ^^ Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Tản mạn chuyện trà – la cà chuyện rượu Rượu chè, một trong mấy thứ ” tính tình tinh” nó quấy ta! Ấy… trong đời có mấy ai lại không dính dấp đến ” rượu hay chè” nhưng ông bà ta đã từng nhắc nhở chúng ta nên ” cẩn thận” ! Nhân dịp đầu Xuân, Bí Bếp mong “tán gẫu” cùng ACE về “sự cố” rượu chè hén… và để mở đầu câu chuyện, Bí Bếp xin dùng “trà” thay vì “rượu” để tiếp ACE trước hén. Trà đã gắn liền cùng văn hoá “ăn uống” của dân Việt nói riêng, và các dân tộc gốc Á Châu nói chung, đã lâu lắm, lâu lắm rồi! Theo truyền thuyết của mí chú thím Ba TQ thì ông tổ của trà bên Tàu là vua Thần Nông cũng là ông tổ của nghề thuốc Bắc và cũng là ông tổ của nghề nông! Có người cũng ” théc méc” là “nhân vật” vua thần Nông có thật hay chỉ là một sáng tác của ai đó chăng ? Đại khái thì truyền thuyết về Trà được kể như sau Vua Thần Nông, có tiếng là một trong những ông vua thuộc dạng “minh quân” và có tiếng là ” thương dân, mến nước”, nhất của người Hoa. Vua Thần Nông đã dạy dân TQ cách thức cày bừa, trị bệnh, và ngay cả một số cách thức “ăn chơi”. Vua Thần Nông thường xuyên đi chu du khắp nơi theo dạng “thăm dân cho biết sự tình”. Trong một chuyến “công du” ở miền Nam mạn Lĩnh Nam, hồ Động Đình, vua và tùy tùng tạm nghỉ chân dưới một tàng cây nọ. Vua cho người đun nước sôi thì trong lúc có một ít lá khô rơi vào nồi nước. Trong lúc đang mỏi mệt, vua ta vẫn uống nước đấy chứ không chờ đám tùy tùng nấu nồi nước khác. Một lúc sau, nhà vua cảm thấy trong người lâng lâng và sảng khoái nên vua cho lấy giống, trồng lại và phổ biến trong dân gian nên dùng loại cây lá đấy mà làm thức uống, rất tốt cho “xức phẻ”! Còn một thuyết khác thì trà đã du nhập vào Trung Hoa sau khi theo chân cùng một vị Tu sĩ Phật Giáo từ Ấn Độ Bồ Đề Lạt Ma cũng ngót nghét khoảng năm về trước. Trong suốt chín năm “thiền định”, Bồ Đề Lạt Ma đã không ăn gì ngoài uống một ít nước và ngậm lá trà để giúp ngài “tịnh thần” chống buồn ngủ trong lúc “thiền”. Chuyện ngậm trà hay uống “trà” trong lúc thiền của các tu sĩ Phật Giáo Trung Hoa hay Nhật Bản thì có khá nhiều “tình tiết” hơi giống nhau. Nếu dựa theo truyền thuyết đầu tiên của mí chú thím Ba thì trà đã lưu truyền trong dân gian Trung Quốc cũng đã ngót nghét năm rồi. Thực thế nếu ta dựa vào “sách vỡ” dạng “cổ thư” của họ thì ” trà” đã được nhắc đến như là một trong những “vị thuốc” từ phương Nam từ thời hậu “Xuân Thu Chiến Quốc” 200-100 BC. Thế mãi cho đến thế kỷ thứ 8 của thời Đại Đường, ông Lữ Dự, một văn sĩ, hoạ sĩ, thi sĩ và một loạt “sĩ” của TQ mới viết một cuốn sách chuyên bàn trò ăn chơi của “trà” qua tựa đề ” Kinh Trà” Cha Ching]. Lữ Dự rất là tình tiết trong quan niệm trồng trà, hái trà, sấy trà, cất trà, uống trà, và cuốn “Kinh Trà” vẫn được xem là “mẫu mực” của cách thưởng thức “trà” của người Hoa từ trước đến nay. Cho dù trà có thể đã có rất lâu đời nhưng dựa theo “sách vỡ” thì trà trở thành một trong những sản vật được trao đổi giữa các dân tộc trong vùng Á châu theo con đường “tơ lụa” trên dưới mười thế kỷ qua. Trà có nơi đã được đúc thành bánh và dùng thế cho “tiền” trong các vụ mua bán, đổi bác giữa các dân tộc, nhất là các sắc dân sống ở miệt tây bắc Trung Hoa. Trà đã được du nhập và nước Nhật từ thế kỷ thứ 10 cũng theo chân cùng các tu sĩ Phật Giáo nhưng rất giới hạn cho đến thế kỷ thứ 15 trở về sau trà mới được phổ biến rộng rãi hơn trong nước Nhật. Từ từ, chúng ta sẽ “mạn đàm” về quan hệ “trà đạo” của người Nhật có quan hệ như thế nào với nghề “trà” của xứ ta hén. Trà, chiếu theo truyền thuyết dân gian của người Việt mình thì cũng đã kéo dài cả năm nay chớ ít sao . Trà là một giống cây Camellia sinesis mọc “hoang” từ Ấn Độ sang miền nam Trung Hoa, xuống đến mạn Đông Nam Á, nhất là ở các miền Cao Nguyên của Việt Nam, Campuchia, Mã Lai, Ở các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên người ta còn tìm thấy một số cây trà rất cổ vẫn còn sống chiết tính có thể lên đến năm tuổi. Sau năm Bắc Thuộc nước Việt Nam đã giành độc lập sau triều Đại Đường bị nhà Tống lật đổ – từ thế kỷ thứ 10 ,dù sao nền văn hoá Việt Nam, ngay cả nghệ thuật ” ăn uống” cũng bị ảnh hưởng không ít thì nhiều theo văn hóa Trung Hoa. Ngược dòng lịch sử một tí thì triều Tống bên Trung Hoa đã thay thế nhà Đại Đường kể từ thế kỷ thứ 10 cho đến lúc họ bị quân Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Thành Cát Tư Hãn tiến chiếm mà thiết lập nhà Nguyên gần cả 100 năm vào gần cuối thế kỷ thứ 13. Trong thời cực thịnh của triều Tống cũng là lúc nền văn hoá độc lập của Việt Nam cũng phát triễn khá mạnh bắt đầu từ Lý Công Uẩn và kéo dài gần suốt cả chín đời vua của triều Lý trong khoảng thời gian nầy. Nước Nhật lúc đấy lại bị triều Tống “cô lập” nên một số tu sĩ Phật Giáo và danh thương người Nhật đã dùng Việt Nam làm ngã du nhập ” văn hoá” cho xứ sở của họ. Nghệ thuật uống trà của Việt Nam điển hình là trà xanh và trà cụ đã được tiền nhân chúng ta cho xuất cảng sang Nhật trong giai đoạn nầy từ triều nhà Lý sang đến nhà Trần. Hiện nay tại một bảo tàng viện của người Nhật ở Kyoto cựu thủ đô của Nhật vẫn còn lưu giữ và chưng bày một số trà cụ từ Việt Nam mà họ đã nhập vào nước Nhật trong triều đại nhà Lý. Người Nhật vẫn xem đấy là những món đồ “quốc bảo”. Riêng trò chơi “trà” của người Việt chúng ta thì đã được phát triễn cực thịnh, trở thành một bộ môn chơi của giới quan quyền, thượng lưu trong triều nhà Nguyễn của thời cận đại. Điển hình nhất cho bộ môn trà trong thời Nguyễn là sự phát triển của trà ướp sen trong thời vua Tự Đức cung nữ bơi thuyền ra hồ sen trong buổi chiều, cho trà sấy vào mỗi đoá sen để lấy hương sen qua đêm, rồi bơi thuyền ra lấy trà lại vào buổi sáng ngày hôm sau… cho vua và các quan lớn thưởng thức loại trà ướp sen nầy. Phổ thông hơn thì trà đã gắn liền cùng đời sống thường ngày của người Việt chúng ta. Trà dùng không những được dùng làm một thức uống tiện dụng hàng ngày mà là một “sính lễ” không thể thiếu trong những dịp lễ trọng đại như ” ma chay, cưới hỏi”, và dùng để tiếp khách từ dạng “quốc khách” cho đến “thực khách” của hàng dân giả! Cụ Tú Xương, một trong những thi sĩ có thể nói là “chịu chơi” nhất trong làng văn học Việt Nam cũng đã từng than thở sự yếu kém của mình trước hấp lực của “trà” như sau Một trà một rượu một đàn bà Ba cái lăng nhăng nó quấy ta. Chừa được cái gì hay cái nấy, Có chăng chừa rượu với chừa trà Cách thức uống trà phổ thông của người Việt thì thường không cầu kỳ như kiểu uống trà Trà tàu hay lề mề như trà Nhật Trà Đạo… Trà ta thường gói ghém ở dạng trà xanh mà nổi tiếng nhất là các dạng trà được trồng ở mạn Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Thái, Hà Giang, và sau nầy được trồng ở các vùng của Trung Nguyên Bảo Lộc, Đà Lạt, . Trà cũng được bày bán cho tầng lớp dân lao động ngày xưa ở dạng ” chè tươi” và sang hơn thì các loại trà tẩm hương nhài, cúc, sen, quế, Sau nầy, một số dân chơi lại khoái ” mode” trà túi trà Lipton và phổ thông hiện giờ thì trò ” trà sữa” của Đài Loan đã mọc như ” nấm” ở các thành phố và cộng đồng Việt từ trong cho đến ngoài nước. Riêng cách uống trà theo ” bài bản” của dân “sành điệu” dạng ” tao nhân mặc khách” ngày trước thì được gói ghém như sau Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh. Phần chính của trà ngon, phải là nước… nước thường là nước mưa được hứng ở giữa trời. Cẩn trọng hơn nữa, nước đun trà có người còn đi lấy từ các nguồn suối thiên nhiên, hay từ một số mạch giếng không bị ô nhiễm, rồi được mang về, che đậy cẩn thận cho đến khi dùng để “cất” trà. Cách nấu nước cũng hết sức quan trọng. Than thường được dùng để “đun” nước vì than không bốc mùi làm hư nhiễm ” mùi trà” như các loại củi khô, dầu hôi, hay các loại dầu khác. Nhiệt độ cũng thế sôi sủi tăm, đầu nhang, đầu đũa, thường là cách mà người trước phân định sức nóng của nước ngày nay thì ta dùng điều nhiệt kế cho chắc ăn. Sau đó mới đến loại trà mà ta chọn để ” cất” . Trà ta, thì đã nói thường là các loại trà xanh trà móc câu, trà Thái Nguyên, được cất ở khoảng sôi sủi tăm khoảng 80 độ C hay 165-170 độ F. Nếu trà tẩm hương trà sen, trà nhài, trà cúc, thì các cụ thường cất ở độ sôi đầu nhang khoảng 200 – 205 độ F như dạng ta ” ninh” nước lèo cho nồi phở. Các cụ tuyệt đối không dùng nước sôi để cất trà vì… nếu dùng nước sôi sẽ là ” cháy” trà… và trà trở nên ” chát ngắt” vì bị ” cháy”! Phần Bôi chén hay Bình trà ở đây thường là dạng chén cỡ hột mít hay mắt trâu . Bình hay ấm thì có bình chuyên và bình tống. Trước khi pha trà, các cụ dùng nước ” sôi” để tráng sơ chén và bình để làm nóng thật ra đấy là một hình thức tẩy vệ sinh và rửa trà nước đầu xong đổ đi… để cho trà nở đều trong nước mà cho ra hương vị đầy đặn nhất . Mỗi lần ” độc ẩm” , ” song ẩm” , ” tứ ẩm” , hay ” quần ẩm” thì các cụ lại đều có những loại bình đủ cỡ, đủ kích khác nhau. Như đã nói, nghề và kỹ thuật đồ gốm của người Việt thật ra đã khá phát triễn… từ lúc thủ đô nước ta đã được dời về Thăng Long Hà Nội ngày nay. Mới khoảng thời gian rất gần đây, Hà Nội mới khai quật được một số đồ gốm rất tinh xảo trong đời nhà Trần mà trình độ kỹ thuật không thua gì những tác phẩm đặc sắc của Trung Hoa! Phần ” ngũ quần anh” thì… “bạn trà” thường khó tìm hơn “bạn rượu”. Nghệ thuật uống trà cũng đã được các cụ cho vào hàng chiếu trên của ” tao nhân mặc khách” mà điển hình là thú nghe cô đầu hay hát ả đào mà chúng ta nghe đến sau nầy. Mèn, mí cụ ngày xưa nghe Hát Ả Đào dạng ca Trù mà được người đẹp có giọng ca thánh thót cỡ Mỹ Linh hay Ngọc Hạ pha trà

một trà một rượu một đàn bà